Trong vô lượng kiếp về trước, ngài Địa Tạng là một vị Trưởng giả, nhờ phước duyên được chiêm ngưỡng, đảnh lễ và được sự chỉ dạy của đức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai, vị Trưởng giả này đã phát đại nguyện: “Từ nay đến tận đời vị lai, tôi vì những chúng sanh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày nhiều phương tiện làm cho chúng nó được giải thoát hết cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật quả.”
Vào thời quá khứ
vô số kiếp trước, thuở đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, tiền thân của
Ngài là một người nữ dòng dõi Bà-la-môn có nhiều phước đức và oai lực; nhưng mẹ
của cô không tin vào nhân quả tội phước, tạo rất nhiều ác nghiệp, sau khi chết
bị đọa vào địa ngục. Là người con chí hiếu, cô rất thương nhớ mẹ, và đã làm vô
lượng điều lành, đem công đức ấy hồi hướng cho mẹ, và cầu nguyện đức Phật cứu
giúp. Nhờ các công đức chí thành ấy, đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại đã cho cô biết
là mẹ của Cô đã được thoát khỏi cảnh địa ngục và vãng sanh về cõi trời. Vô cùng
hoan hỉ trước tin ấy, cô đã đối trước đức Phật Giác Hoa phát nguyện: “Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai những
chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó
được giải thoát.”
Trong hằng hà sa số
kiếp về trước, thuở đức Phật Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, ngài Địa Tạng là
một vị vua rất Từ bi, thương dân như con … nhưng chúng sanh lúc ấy tạo rất nhiều
ác nghiệp, vị vua hiền đức này đã phát nguyện: “Như tôi chẳng trước độ những kẻ tội khổ làm cho đều đặng an vui chứng
quả Bồ Ðề, thời tôi nguyện chưa chịu thành Phật.”
Vô lượng kiếp về
thuở quá khứ, thời đức Phật Liên Hoa Mục Như Lai, ngài Địa Tạng là một hiếu nữ
tên Quang Mục có nhiều phước đức. Nhưng mẹ của Quang Mục lại là người rất ác, tạo
vô số ác nghiệp. Khi mạng chung, bà bị đọa vào địa ngục. Quang Mục tạo nhiều
công đức hồi hướng cho mẹ, và nhờ phước duyên cúng dường một vị A-la-hán, vị
Thánh này đã cho biết rằng, mẹ của cô đã thoát khỏi cảnh địa ngục sanh vào cõi
người, nhưng vẫn còn chịu quả báo sinh vào nhà nghèo hèn, hạ tiện, lại bị chết
yểu… vì lòng thương mẹ và chúng sanh, Quang Mục đã đối trước đức Phật Liên Hoa
Mục Như Lai phát nguyện: “Từ ngày nay nhẫn
về sau đến trăm nghìn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các hàng chúng
sanh bị tội khổ nơi địa ngục cùng ba ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng sanh đó
làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo: địa ngục, súc sanh và ngạ quỉ,
v.v... Những kẻ mắc phải tội báo như thế thành Phật cả rồi, vậy sau tôi mới
thành bậc Chánh Giác.”
Ngoài những sự
tích trong kinh nêu trên lại còn một sự tích Lịch sử Phật giáo Hàn Quốc ghi rằng
:
Ngài Địa Tạng Bồ
tát tục danh Kim Kiều Giác (Kim Kyo-gak), sanh vào thế kỷ thứ VII, năm 696 TL,
tại nước Tân La (Silla), hiện nay là Hán Thành, thuộc Nam Hàn.
Ngài vốn là một
Hoàng tử, sống trong lầu son nhung lụa, ở cung vàng điện ngọc, thế nhưng tính
Ngài lại thích đạm bạc, không bị ảnh hưởng bởi nếp sống vương giả phong lưu đài
các, mà chỉ chăm lo học hỏi và ham đọc Thánh hiền. Đức
tướng trang nghiêm, lòng Từ bi thuần hậu của Ngài thì khó có ai sánh kịp.
Vào năm Vĩnh Huy đời
Đường Cao Tông, sau khi tham khảo hết Tam giáo, Cửu lưu và Bách gia chư tử thì
Ngài bèn buông lời cảm thán: “So với Lục
kinh của Nho gia, Đạo thuật của Tiên gia, thì lý Đệ nhất Nghĩa đế của nhà Phật
là thù thắng hơn hết, rất hợp với chí nguyện của ta.” Sau đó lập chí xuất
gia vào lúc 24 tuổi.
Sau khi xuất gia, Ngài ưa đến chỗ vắng vẻ
tu tập Tham thiền nhập định, nhân đây bèn nghĩ đến việc hành cước, tìm một nơi
thanh vắng để tĩnh tu. Ngài chuẩn bị thuyền bè, đem theo một ít hành trang và
lương thực, đồng thời dắt theo con Bạch khuyển (chó trắng) tên Thiện Thính, đã
theo Ngài từ lúc xuất gia.
Ngài một mình tự
lái thuyền rời bến Nhân Xuyên (Incheon), trương buồm ra khơi, tùy theo hướng
gió mà đi, sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, đến cửa sông Dương Tử (Trung
Hoa).
Thuyền bị mắc cạn
trên bãi cát, Ngài bèn bỏ thuyền đi bộ lên bờ, tiếp tục cuộc hành trình. Sau
nhiều ngày lang thang, ngài đến chân núi Cửu Tử ở huyện Thanh Dương, tỉnh An
Huy.
Thấy phong cảnh
nơi đây hùng vĩ, sơn xuyên tú lệ, ngài bèn quyết định ở lại. Ngài đi dọc theo
triền núi lên phía trên cao để khảo sát, phát giác khoảng giữa các ngọn núi là
một vùng đất bằng phẳng, cảnh trí nên thơ vô cùng tịch mịch, bèn trèo lên mỏm
đá bên cạnh một khe nước suối trong và thong dong tự tại với năm tháng mà
ngồi tĩnh tọa.
Một hôm, đang lúc
tĩnh tọa, bổng có một con rắn độc nhỏ đến cắn vào đùi, nhưng ngài vẫn an nhiên
bất động. Giây lát sau, một người đàn bà tuyệt đẹp từ trên vách núi bay xuống,
đến bên cúi lạy, đưa thuốc cho ngài và nói: “Đứa bé trong nhà rắn mắt, xúc phạm tôn
nhan. Thiếp xin tạo một con suối mới để đền đáp lỗi lầm của cháu nhỏ.”
Nói xong biến mất.
Chưa đầy một sát na, trong vách núi phụt ra một dòng suối cuồn cuộn chảy xuống.
Từ đó, ngài không còn phải lao nhọc đi xa gánh nước về. (Đây là dòng suối Long
Nữ Tuyền nổi danh ở núi Cửu Hoa).
Tương truyền, dưới
chân núi có vị Trưởng giả tên Mẫn Công (Văn Các lão nhân), là người thích bố
thí cúng dường chư tăng. Ông thường tổ chức cúng dường trai tăng hàng trăm vị.
Thế nhưng, mỗi lần như thế, đều thiếu một vị Tăng. Vì vậy, mỗi lần tổ chức ông
đều tự thân lên núi mời Ngài. Nếu không, công đức cúng dường không được viên
thành.
Không bao lâu sau,
vì muốn mở rộng đạo trường để quảng độ chúng sanh, ngài Địa Tạng bèn đến xin Mẫn
Công (Văn Các lão nhân) cúng dường một mảnh đất. Mẫn Công nói: “Tùy ngài muốn
bao nhiêu con xin cúng bấy nhiêu.”
Ngài Địa Tạng nghe
thế, tung tấm Cà sa lên không. Tấm Cà sa tỏa rộng bao trùm toàn núi Cửu Hoa. Mẫn
Công (Văn Các lão nhân) thấy thế bèn vô cùng hoan hỷ, đem toàn bộ núi Cửu Hoa
cúng dường.
Mẫn Công (Văn Các
lão nhân) có một người con trai, ngưỡng mộ đức hạnh của ngài, bèn đến xuất gia,
hiệu là Đạo Minh. Sau đó, Mẫn Công(Văn Các lão nhân), vì muốn thuận tiện trong
việc nghe pháp, bèn lễ bái Đạo Minh làm thầy. Việc này trở thành một giai thoại
nổi tiếng trong chốn Thiền môn.
Hiện nay, trong
các chùa ở Hàn Quốc thờ tượng đức Điạ Tạng, phần lớn đều có tượng của cha con
(Văn Các lão nhân), Mẫn Công (một nhà sư trẻ và một ông lão) đứng hầu hai bên.
Ngài Địa Tạng thường
Tham thiền nhập định. Ngoài việc giảng kinh thuyết pháp, ngài thường mướn người
sao chép bốn bộ kinh lớn của Đại thừa Liễu nghĩa, đem đi bố thí khắp nơi.
Năm Chí Đức thứ nhất
(TL 765), có danh sĩ Gia Cát Tiết, ngụ tại một làng dưới chân núi, hương dẫn
các kỳ lão trong làng, lên núi thưởng ngoạn. Đến vùng đất bằng trên núi, thấy
những áng mây trôi lững lờ trên bầu trời xanh với ánh nắng chan hòa ấm áp, tiếng
suối reo từ khe núi chảy ra nghe róc rách, tiếng chim hót líu lo khiến cho mọi
người bị phong cảnh tú lệ làm mê hoặc, đi dần vào rừng sâu, chợt thấy có một vị
Thiền sư Tọa thiền trên mõm đá bên cạnh dòng suối, đang nhắm mắt nhập định. Bên
cạnh là một cái đảnh cổ gảy một chân, trong đó có một ít gạo trộn lẫn đất trắng.
Một lát sau, vị
Thiền sư xuất định, lấy gạo đất nấu chín rồi ăn. Ăn xong, ngài lại tiếp tục
tĩnh tọa Tham thiền. Những người trong nhóm thấy thế, vô cùng cảm động bèn đến
thưa với ngài: “Thưa! Ngài tu khổ hạnh như vầy, đây là lỗi của dân làng
chúng con!”
Chẳng bao lâu, mọi
người trong làng cùng nhau xây cất một ngôi Thiền đường rộng lớn hơn nữa, quanh
năm đều cúng dường thực phẩm không hề gián đoạn.
Năm Kiến Trung thứ nhất (TL. 780), vị Quận
thú Trương Nghiêm, nhân vì kính ngưỡng đạo hạnh cao quý sùng kính công nghiệp
hoằng pháp của ngài, bèn tâu lên Đức Tông Hoàng Đế, ban sắc dụ chính thức kiến
tạo Tự viện. Bấy giờ Đạo tràng của Ngài Địa Tạng mới thực sự hùng vĩ trang
nghiêm.
Lúc ấy, các vị
tăng nước Tân La (Silla) nghe danh, có đến vài trăm người tìm đến thân cận tu học
với Ngài. Dần dần, số người càng lúc càng đông, thực phẩm trở nên thiếu thốn. Một
hôm, ngài ra phía ngoài chùa, cho đào rất nhiều đất trắng nhuyễn như bột, dự định
bổ túc vào phần ăn.
Mọi người trong
chùa, cảm mến bởi đức hạnh của Ngài, đều cùng nhau lên tiếng: “Nguyện dùng
pháphỷ thực và Thiền duyệt thực nuôi sống tuệ mạng, không dùng vật thực nuôi sống
thân mạng”.
Điều này chứng tỏ
mọi người trong chùa không lấy thân mạng làm trọng. Thời đó, mọi giới trong Phật
giáo đều tỏ lời khen ngợi, ca tụng họ là “Nam mô Các Vị Tăng Gầy Ốm phương Nam”.
Một hôm vào mùa hạ,
năm Trinh Nguyên thứ mười (TL. 795), Ngài triệu tập Tăng chúng vào Chánh điện để
từ giã. Mọi người cảm thấy hoang mang không rõ lý do gì. Lúc ấy, các ngọn núi
phát ra tiếng khóc gào thét thảm thiết của muôn thú, những tảng đá lớn ầm ầm
rơi xuống vực sâu, khắp rừng cây cỏ đều ngẩn ngơ sầu, mây che phủ kín trời đất
đều rung chuyển và mây che phủ kín, mùi hương tỏa khắp núi rừng. Ngài an
tọa kiết già Thị tịch. Hưởng thọ 99 Xuân.
Sau khi Viên tịch,
nhục thân của ngài được đặt trong một động đá. Ba năm sau, Tăng chúng mở động
ra, thấy nhục thân vẫn còn nguyên vẹn, tướng mạo giống hệt như lúc sanh tiền.
Đại chúng đem nhục
thân đến Bảo tháp trên ngọn Thần Quang Lãnh. Dọc đường, nghe văng vẳng như có
tiếng tích trượng vàng khua động theo nhịp chân của mọi người. Kinh dạy: “Bồ tát bị nạn, hình hài vang động ”. Đây
là một dữ kiện chân chánh, không chút hoài nghi, chứng minh sự ứng hóa của ngài
Bồ Tát Địa Tạng.
Hơn nữa, nếu như cung kính lễ bái nhục
thân của ngài Kim Địa Tạng, thì sẽ được lợi ích giống như Kinh Địa Tạng đã nói.
Từ đó đến nay trải
qua hàng thiên niên kỷ, Phật tử và mọi người khắp nơi trên thế giới đều không
ngại gian lao, đều phát tâm đến Thánh tích Cửu Hoa Sơn, Trung Quốc để cùng
chiêm bái nhục thân của ngài Địa Tạng Bồ Tát.
Đặc biệt, mỗi năm
vào ngày vía của Ngài vào ba mươi tháng bảy AL, tại Thánh địa Cửu Hoa Sơn,
trong vòng mấy mươi dặm, dầy đặc những Phật giáo đồ, nam nữ lão ấu, đến tham dự
nhất bộ nhất chiêm (một bước một xá) hoặc nhất bộ nhất bái (một bước một lạy),
đủ chứng tỏ Bồ tát đã kết duyên Bồ đề rộng rãi, sức Từ bi cảm hóa sâu dày!.
Đến đầu thế kỷ thứ VIII, nhân gian truyền
nhau rằng: Bồ tát Địa Tạng thị hiện thành Thái tử Triều Tiên tục danh Kim Kiều
Giác (Kim Kyo-gak), xuất gia tu Phật, rồi vân du sang Trung Quốc, tại núi Cửu
Hoa, hóa hiện thần lực nhiếp độ quần sanh.
Và từ đó về sau, Cửu Hoa Sơn trở thành đạo
tràng của Bồ tát Địa Tạng. Từ khi Bồ tát Địa Tạng ứng hiện tại Cửu Hoa Sơn, niềm
tin về sự cứu độ của Ngài trong lòng Phật tử ngày càng sâu rộng. Khách từ phương
xa hành hương đến, chiêm bái và cầu nguyện tại Cửu Hoa Sơn ngày càng đông.
Rồi theo thời gian, vì nhu cầu tu tập của
Tăng Ni cũng như Phật tử, hàng trăm Tự viện được xây dựng trên dãy núi kỳ vĩ
này. Cửu Hoa Sơn hưng thịnh nhất vào đầu và giữa triều đại nhà Thanh và suy giảm
từ cuối nhà Thanh trở về sau.../.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét