“Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật” và Đức Bồ Tát Địa Tạng chính là hiện thân của tấm gương hiếu hạnh. Bởi trong vô lượng kiếp trước, Ngài là người con rất hiếu thảo, phước đức sâu dày, luôn tìm cách để cha mẹ an vui trong chính Pháp. Câu chuyện về Thánh Nữ Bà La Môn - tiền thân của Bồ Tát Địa Tạng là một trong những câu chuyện thể hiện tâm đại hiếu của Ngài.
Trong một kiếp
Ngài vì thương mẹ, nghĩ đến quả báo khổ đau mẹ phải gánh chịu mà mở rộng tâm từ
bi thương tưởng đến tất cả chúng sinh, phát lời đại nguyện rộng lớn cứu độ
chúng sinh.
Để hiểu sâu về câu chuyện trên, kính mời
quý Phật tử cùng theo dõi bài viết dưới đây qua lời chia sẻ của Sư Phụ Thích
Trúc Thái Minh dựa theo bài kinh “Bà La Môn cứu mẹ” trong kinh Địa Tạng
Bổn Nguyện.
Tâm đại hiếu của
Thánh Nữ cảm ứng tới Đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương
Trong vô lượng kiếp
về trước, có Đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, tuổi thọ đến bốn trăm
nghìn muôn ức vô số kiếp. Trong thời tượng Pháp, có người con gái dòng Bà La
Môn, phước đức sâu dày nhiều đời, mọi người đều kính nể, thường được chư Thiên
theo hộ vệ.
Tuy nhiên, mẹ cô
không tin nhân quả, mê tín tà đạo, thường khinh khi Tam Bảo. Thấy vậy, Thánh Nữ
bằng nhiều lời phương tiện khuyên nhủ, mong sao mẹ tin nhân quả, có được chính
kiến nhưng bà chưa tin hẳn. Thế rồi, chẳng bao lâu, mẹ Thánh Nữ chết đọa vào địa
ngục Vô Gián. Khi ấy, Thánh Nữ biết mẹ mình khi sống tạo ác nghiệp thì chết rồi
chắc chắn sẽ đọa vào đường ác. Không muốn mẹ chịu khổ nên Thánh Nữ bèn bán nhà,
đất, sắm nhiều hương hoa cùng những đồ lễ cúng, rồi đem cúng dường tại các chùa
tháp thờ đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương.
Khi chiêm bái hình
tượng Đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương, cô liền sinh lòng kính ngưỡng, tự
nghĩ thầm rằng: “Đức Phật là đấng Đại
Giác đủ tất cả trí huệ, nếu Đức Phật còn trụ ở đời, thì khi mẹ tôi khuất, tôi đến
bạch hỏi Phật, chắc thế nào cũng rõ mẹ tôi sanh vào chốn nào”. Rồi Thánh Nữ
buồn tủi rơi lệ, lòng sầu bi quyến luyến mẹ.
Thấy cô thương nhớ
mẹ trội hơn lòng thương thường tình của chúng sinh nên Đức Giác Hoa Định Tự Tại
Vương cất tiếng vọng trong hư không chỉ bảo cho cô chỗ mẹ cô thác sinh về.
Thánh Nữ bạch rằng:
- Cúi xin Đức Phật xót thương bảo ngay cho
rõ chỗ thác sanh của mẹ con, nay thân tâm của con sắp chết mất!
Đức Phật chỉ bảo
cho Thánh Nữ:
- Cúng dường xong, ngươi mau mau trở về
nhà, rồi ngồi ngay thẳng nghĩ tưởng danh hiệu của Ta, thời ngươi sẽ biết chỗ
thác sanh của mẹ ngươi.
Đức Phật dạy Thánh
Nữ bố thí, cúng dường để buông xả tâm tham chấp, không dính mắc. Tiếp đó là đưa
tâm về an định; tức là nghĩ tưởng đến danh hiệu của Đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Như Lai. Quán chiếu về danh hiệu của Ngài: “Giác Hoa” tức là bông hoa
giác ngộ, “Định” tức là tâm an định, “Tự Tại” là không dao động, không bị trói
buộc, lệ thuộc.
Hiểu một cách đầy
đủ là khi nghĩ tưởng đến danh hiệu của Ngài, cô phải đưa tâm trở về trong an định,
tự tại, lúc đó sự giác ngộ sẽ khai mở và biết được nơi mẹ cô thác sinh. Tức là
tự tâm cô giác ngộ mà chứng biết điều đó, không phải do Phật chỉ cho.
Thánh Nữ nhiếp tâm
thấy cảnh giới địa ngục và sự khổ của chúng sinh.
Nghe lời Phật dạy,
Thánh Nữ liền trở về nhà. Vì thương nhớ mẹ nên cô ngồi ngay thẳng trải suốt một
ngày một đêm. Vào trong định, cô thấy thân mình đến một bờ biển rất lạ kỳ: nước
trong biển sôi sùng sục, có nhiều thú dữ thân thể toàn bằng sắt bay nhảy trên mặt
biển. Trai cùng gái nhiều đến muôn nghìn chìm nổi ở trong biển, bị thú dữ giành
nhau ăn thịt.
Lại thấy quỷ Dạ Xoa hình thù lạ lùng, hoặc
nhiều tay, nhiều chân, nhiều mắt, nhiều đầu, răng nanh chìa ra ngoài, miệng bén
nhọn dường gươm bắt những người có tội, hình trạng muôn thứ chẳng dám nhìn lâu.
Khi ấy, nhờ nương sức niệm Phật nên Thánh Nữ không kinh sợ.
Lúc đó, có vị Quỷ
Vương tên Vô Độc đến cúi đầu đón tiếp Thánh Nữ. Quỷ Vương cho cô biết nơi đây
là tầng biển thứ nhất ở phía Tây núi đại Thiết Vi. Trong kinh Phật nói bốn phía
của núi Thiết Vi đều là biển, gọi là địa ngục. Và địa ngục này nếu không phải
người có sức oai thần hay do nghiệp lực thì không bao giờ có thể đến được.
Quỷ Vô Độc bảo rằng:
“Những người tội trong biển này là những
kẻ tạo ác ở cõi Diêm Phù Đề mới chết, trong khoảng bốn mươi chín ngày không người
kế tự để làm công đức hầu cứu vớt khổ nạn cho; lúc sống, kẻ đó lại không làm được
nhân lành nào cả. Vì thế nên cứ theo nghiệp ác của họ đã gây tạo mà cảm lấy báo
khổ ở địa ngục, tự nhiên họ phải lội qua biển này”.
Cách biển này, mười
muôn do tuần về phía Đông lại có một biển; về phía Đông của biển đó lại có biển
khác nữa. Sự thống khổ của tội nhân trong biển sau gấp bội lần hơn biển trước:
“Đó đều là do những nghiệp nhân xấu xa của
ba nghiệp mà cảm vời ra, đồng gọi là biển nghiệp, chính là ba cái biển này vậy”.
Ba nghiệp này
chính là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Thân tạo ba ác nghiệp: sát sinh,
trộm cắp, tà dâm. Miệng tạo bốn ác nghiệp: nói dối, nói hai lưỡi, nói thêu dệt,
nói lời hung ác. Ý nghĩ tạo ra ba ác nghiệp: tham lam, ích kỷ, sân giận oán hờn,
si mê tà kiến. Từ thân, khẩu, ý tạo ác nghiệp chiêu cảm thành ba biển nghiệp và
gọi là địa ngục. Ngoài ra, ở địa ngục còn có trăm nghìn ngục khác, không thể kể
hết được sự thống khổ của chúng sinh phải chịu.
Thánh Nữ xót
thương chúng sinh mà phát lời thệ nguyện rộng lớn độ khắp chúng sinh. Không biết
mẹ sinh về nơi nào, Thánh Nữ hỏi Quỷ Vương và cô cũng cho biết:
- Thân mẫu của tôi
mê tín tà đạo, khinh chê ngôi Tam Bảo, hoặc có lúc tạm thời tin chánh pháp,
xong rồi chẳng kính. Dầu khuất không bao lâu, mà chưa rõ đọa lạc vào đâu?
Khi biết mẹ Thánh
Nữ là dòng dõi Bà La Môn, tên là Duyệt Đế Lợi. Quỷ Vô Độc chắp tay thưa Thánh Nữ
rằng:
- Xin Thánh Nữ hãy
trở về, chớ đem lòng thương nhớ buồn rầu quá lắm nữa. Tội nữ Duyệt Đế Lợi được
sanh lên cõi Trời đến nay đã ba ngày rồi. Nghe nói nhờ con gái của người có
lòng hiếu thuận, vì mẹ mà sắm sửa lễ vật, tu tạo cội phước lành, cúng dường
chùa tháp, thờ đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai. Chẳng phải chỉ riêng
thân mẫu của Bồ Tát đặng thoát khỏi địa ngục, mà ngày đó những tội nhân Vô Gián
cũng đều được vui vẻ, đồng đặng thác sinh cả”. Nói xong, Quỷ Vương chắp tay
chào Thánh Nữ mà cáo lui.
Bấy giờ, Thánh Nữ
như chiêm bao chợt tỉnh, liền đối trước tượng Đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Như Lai mà phát nguyện rộng lớn: “Tôi
nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai, những chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi lập
ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát”.
Lời nguyện của
Thánh Nữ cũng là hạnh nguyện rộng lớn của chư Phật, Bồ Tát bởi tất cả chư Phật,
Bồ Tát ra đời đều có mục đích duy nhất là cứu khổ chúng sinh. “Nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai” là
không kể thời gian bao lâu, vì muốn chúng sinh được giác ngộ, các Ngài sẽ lập
nhiều phương cách để cứu giúp chúng sinh.
Bấy giờ, Đức Phật
bảo: Quỷ Vương Vô Độc chính là ông Tài Thủ Bồ Tát. Còn Thánh Nữ Bà La Môn nay
là Địa Tạng Bồ Tát.
Qua câu chuyện
trên, chúng ta thấy được tâm hiếu hạnh cao cả của tiền thân Bồ Tát Địa Tạng, tức
Thánh Nữ Bà La Môn. Tâm hiếu vượt trên cả thường tình chúng sinh, với mong mỏi
làm sao cho mẹ được an vui, không phải chịu khổ đau. Ngài vì thương chúng sinh
phải chịu khổ mà dũng mãnh phát lời đại nguyện cứu độ khắp tất cả chúng sinh.
Từ đó, chúng ta thấy
được ân đức sâu dày của chư Phật, Bồ Tát; trong đó có Ngài Bồ Tát Địa Tạng mà
chúng ta hằng nên tri ân, tán thán. Bởi chúng ta được kết duyên với Phật Pháp,
được sinh vào cảnh giới an lành, có lẽ chính là từ nơi hạnh nguyện của các
Ngài, nguyện vào sinh tử luân hồi để cứu khổ chúng sinh./.
Địa Tạng Bồ Tát là tấm gương hiếu thảo để người đời chúng ta noi theo Ngài. Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Trả lờiXóa